Giáo viên tiếng anh là công việc quá quen thuộc hiện nay. Với sự phát triển ngôn ngữ, đặc biệt tiếng anh là ngôn ngữ phổ biến trên thế giới trong đó có Việt Nam nên nhu cầu học tiếng anh ở các trường học, trung tâm đều đạt mức cao.
Giáo viên tiếng anh là công việc quá quen thuộc hiện nay. Với sự phát triển ngôn ngữ, đặc biệt tiếng anh là ngôn ngữ phổ biến trên thế giới trong đó có Việt Nam nên nhu cầu học tiếng anh ở các trường học, trung tâm đều đạt mức cao.
Tỷ lệ lương của giáo viên so với lương tối thiểu cho thấy giáo viên kiếm được bao nhiêu so với mức lương tối thiểu ở mỗi quốc gia. Tỷ lệ này được tính bằng cách chia tổng lương của giáo viên cho tổng lương tối thiểu.
Tỷ lệ đó cao nhất ở Đức với 2,8, trong khi Ba Lan có tỷ lệ thấp nhất với 1,1.
Nói cách khác, mức lương khởi điểm của giáo viên ở Ba Lan rất gần với mức lương tối thiểu, trong khi giáo viên bắt đầu ở các trường công của Đức kiếm được gần gấp ba lần mức lương tối thiểu.
Ở hầu hết các nước châu Âu, giáo viên bắt đầu làm việc tại các trường công cũng kiếm được trung bình ít hơn đáng kể so với (GDP) bình quân đầu người.
Tổng mức lương khởi điểm theo luật định hàng năm của họ cao hơn GDP bình quân đầu người chỉ ở bảy trong số 36 quốc gia. Tỷ lệ tiền lương trên GDP bình quân đầu người cao nhất được ghi nhận ở Bắc Macedonia với 1,28, trong khi tỷ lệ này thấp nhất ở Ireland với 0,45.
Trong khi Đức là một trong những quốc gia có GDP bình quân đầu người cao nhất ở châu Âu, tỷ lệ này là 1,26, nghĩa là giáo viên cơ sở vẫn kiếm được nhiều hơn GDP bình quân đầu người. Ngược lại, tỷ lệ này chỉ là 0,71 ở Pháp.
Báo cáo mới nhất của Eurydice cũng đưa ra số liệu của giai đoạn 2009/2010. Mức trung bình trên 26 quốc gia EU là €19.563 trong năm 2009/2010. Tuy nhiên, nó dưới €5.000 ở sáu quốc gia EU, cụ thể là Slovakia (€4.824), Ba Lan (€4.462), Litva (€4.275), Latvia (€4.166), Bulgaria (€2.761) và Romania (€2.743).
Ở các nước EU khác, nó thường dao động từ €18.000 đến €30.000 trong khi mức lương khởi điểm ở Đức và Đan Mạch là hơn €35.000.
Sự thay đổi về tổng lương khởi điểm hàng năm của giáo viên trong giai đoạn 2009/2010 và 2020/2021 là cao nhất ở Litva, nơi tiền lương đã tăng 269% trong 11 năm đó. Các quốc gia thành viên EU gần đây là Romania và Bulgaria cũng chứng kiến mức lương giáo viên tăng đáng kể trong thập kỷ qua, lần lượt là 193 và 180%.
Ngày 01/7/2024 là thời điểm tăng lương cơ sở, tăng lương tối thiểu vùng, ảnh hưởng trực tiếp tới người lao động cũng như giáo viên. Bài viết này cung cấp thông tin chi tiết về bảng lương giáo viên tiểu học trước và sau 01/7/2024 theo quy định của pháp luật.
Báo cáo mới nhất của Eurydice cũng đưa ra số liệu của giai đoạn 2009/2010. Mức trung bình trên 26 quốc gia EU là €19.563 trong năm 2009/2010. Tuy nhiên, nó dưới €5.000 ở sáu quốc gia EU, cụ thể là Slovakia (€4.824), Ba Lan (€4.462), Litva (€4.275), Latvia (€4.166), Bulgaria (€2.761) và Romania (€2.743).
Ở các nước EU khác, nó thường dao động từ €18.000 đến €30.000 trong khi mức lương khởi điểm ở Đức và Đan Mạch là hơn €35.000.
Sự thay đổi về tổng lương khởi điểm hàng năm của giáo viên trong giai đoạn 2009/2010 và 2020/2021 là cao nhất ở Litva, nơi tiền lương đã tăng 269% trong 11 năm đó. Các quốc gia thành viên EU gần đây là Romania và Bulgaria cũng chứng kiến mức lương giáo viên tăng đáng kể trong thập kỷ qua, lần lượt là 193 và 180%.
Giáo viên ở châu Âu lương bao nhiêu? Nước nào trả lương giáo viên nhiều nhất và ít nhất? Mức lương của giáo viên đã thay đổi gì trong một thập kỷ?
Giáo viên thường được ca ngợi là những người anh hùng đáng được tôn vinh, nhưng ở nhiều quốc gia trên khắp châu Âu, họ cảm thấy bị đánh giá thấp và thậm chí còn xuống đường biểu tình.
Hàng nghìn trường học ở Anh và xứ Wales sẽ đóng cửa sau khi các công đoàn giáo viên bỏ phiếu đình công.
Tại Hungary, hàng nghìn giáo viên đã tuần hành ở Budapest vào cuối năm ngoái, kêu gọi tăng lương và cải cách khẩn cấp từ chính phủ sau các cuộc đình công vào tháng 9. Khoảng 50 giáo viên thậm chí đã bị sa thải vì "bất tuân dân sự" sau khi dàn dựng các cuộc đình công.
Đó là một phần của bức tranh toàn cảnh về tình trạng bất ổn trong giáo dục, với tình trạng thiếu giáo viên ngày càng tăng lan rộng khắp châu Âu. Ở Pháp, hiện có 4.000 vị trí tuyển dụng, và ước tính mới nhất ở Đức cho thấy sẽ thiếu 25.000 giáo viên vào năm 2025.
Tình hình phần lớn là do điều kiện làm việc, bao gồm cả tiền lương trì trệ đang trở nên trầm trọng hơn bởi cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt.
Vì vậy, giáo viên được trả bao nhiêu ở châu Âu? Quốc gia nào trả lương cho giáo viên nhiều nhất và ít nhất? Mức lương của giáo viên đã thay đổi bao nhiêu trong thập kỷ qua?
Tổng mức lương khởi điểm hàng năm chính thức tại các trường công lập ở cấp trung học cơ sở dao động từ khoảng €4,233 ở Albania đến €69,076 ở Luxembourg vào năm 2020/2021, theo dữ liệu quốc gia do Ủy ban Châu Âu tổng hợp.
Mức lương trung bình cho giáo viên trên khắp các quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu (EU) là €25.055.
Giáo viên ở Pháp (€26.839) và Ý (€24.297) kiếm được chưa bằng một nửa so với ở Đức (€54.129). Mức lương khởi điểm hàng năm trên 50.000 € chỉ ở hai quốc gia là Thụy Sĩ (66.972 €) và Đức (54.129 €).
Bulgaria có mức lương khởi điểm hàng năm thấp nhất trong số các nước EU, ở mức €7,731. Con số này cũng dưới 10.000 € ở một số nước EU khác như Latvia, Slovakia, Hungary, Romania và Ba Lan.
Khi giáo viên tiểu học là viên chức trong các trường công lập thì lương giáo viên tiểu học 2023 sẽ được tính theo công thức:
Lương = Hệ số x mức lương cơ sở
- Hệ số lương của giáo viên tiểu học được quy định cụ thể tại Điều 8 Thông tư 02/2021/TT-BGDĐT và Nghị định 204/2004/NĐ-CP:
- Mức lương cơ sở dùng để tính lương giáo viên trong năm 2024 chia theo hai giai đoạn:
Theo đó, lương giáo viên tiểu học 2024 là viên chức cụ thể như sau:
Bên cạnh hệ số và mức lương giáo viên tiểu học 2024, vấn đề được nhiều thầy, cô giáo đặc biệt quan tâm là điều kiện thăng hạng.
Điều kiện thăng hạng giáo viên tiểu học được quy định tại Điều 3 Thông tư 34/2021/TT-BGDĐT như sau:
- Trường tiểu học có nhu cầu, Hiệu trưởng cử đi xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp.
- Trước khi xét thăng hạng, được xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên trong năm công tác liền kề trước đó.
- Có đạo đức nghề nghiệp tốt, phẩm chất chính trị; không đang trong thời hạn bị kỷ luật.
- Đã được bổ nhiệm vào chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học phù hợp vị trí việc làm đang đảm nhiệm.
- Đáp ứng điều kiện của giáo viên tiểu học về trình độ đào tạo, năng lực chuyên môn nghiệp vụ tương ứng với hạng sẽ xét thăng hạng.
- Đáp ứng yêu cầu thời gian công tác tối thiểu giữ chức danh nghề nghiệp hạng dưới liền kề với hạng chức danh xét thăng hạng nêu tại các Điều 3, 4, 5 Thông tư 02/2021/TT-BGDĐT:
Điều kiện thời gian giữ hạng dưới liền kề
- Có thời gian giữ hạng III từ đủ 09 năm trở lên (không kể thời gian tập sự), tính đến thời hạn nộp hồ sơ đăng ký thăng hạng.
- Đủ yêu cầu về thời gian giữ hạng nếu:
Có thời gian giữ hạng II từ đủ 06 năm trở lên, tính đến thời hạn nộp hồ sơ đăng ký thăng hạng.
Trên đây là giải đáp chi tiết về lương giao viên tiểu học 2024. Nếu còn thắc mắc, độc giả vui lòng liên hệ 1900.6192 để được hỗ trợ, giải đáp chi tiết.
Tỷ lệ lương của giáo viên so với lương tối thiểu cho thấy giáo viên kiếm được bao nhiêu so với mức lương tối thiểu ở mỗi quốc gia. Tỷ lệ này được tính bằng cách chia tổng lương của giáo viên cho tổng lương tối thiểu.
Tỷ lệ đó cao nhất ở Đức với 2,8, trong khi Ba Lan có tỷ lệ thấp nhất với 1,1.
Nói cách khác, mức lương khởi điểm của giáo viên ở Ba Lan rất gần với mức lương tối thiểu, trong khi giáo viên bắt đầu ở các trường công của Đức kiếm được gần gấp ba lần mức lương tối thiểu.
Ở hầu hết các nước châu Âu, giáo viên bắt đầu làm việc tại các trường công cũng kiếm được trung bình ít hơn đáng kể so với (GDP) bình quân đầu người.
Tổng mức lương khởi điểm theo luật định hàng năm của họ cao hơn GDP bình quân đầu người chỉ ở bảy trong số 36 quốc gia. Tỷ lệ tiền lương trên GDP bình quân đầu người cao nhất được ghi nhận ở Bắc Macedonia với 1,28, trong khi tỷ lệ này thấp nhất ở Ireland với 0,45.
Trong khi Đức là một trong những quốc gia có GDP bình quân đầu người cao nhất ở châu Âu, tỷ lệ này là 1,26, nghĩa là giáo viên cơ sở vẫn kiếm được nhiều hơn GDP bình quân đầu người. Ngược lại, tỷ lệ này chỉ là 0,71 ở Pháp.